Sunday, April 5, 2015

Tam nguyên yên đỗ Nguyễn Khuyến

Written By Unknown on Sunday, April 5, 2015 | 8:35 AM

TIỂU SỬ

Nguyễn Khuyến có tên là Nguyễn Văn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Sinh ngày 15-2-1835 (tức 18 tháng Giêng năm Ất Mùi).
Ông xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có truyền thống khoa bảng. Bên nội quê gốc ở vung Treo Vọt, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, di cư ra Yên Đổ, cho đến thời nhà thơ đã được năm trăm năm. Cụ bốn đời Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Mại, đỗ Tiến sĩ, làm quan đến Hiến sát sứ Thanh Hóa. Ông thân sinh nhà thơ là Nguyễn Liễn, vẫn theo đòi nho học, đỗ 3 khoa Tú tài, chuyên nghề dạy học để kiếm sống ở xứ vườn Bùi.
Mẹ Nguyễn Khuyến là Trần Thị Thoan, quê làng Văn Khê, tục gọi là làng Ngòi, nay thuộc xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.




Thủa nhỏ Nguyễn Khuyến học cha. Năm 1825, đi thi Hương lần thứ nhất cùng với cha, song không đỗ. Ngay năm sau, địa phương có dịch thương hàn, ông mắc bệnh suýt chết. Cha và em ruột, bố mẹ vợ chồng cùng nhiều họ hàng thân thuộc đều qua đời. Gia đình ông lâm vào cảnh “Tiêu điều, xơ xác, đời sống ngày càng đói rét ”. Bà mẹ phải may thuê và đi làm mướn lần hồi, còn ông thường phải “sách đèn nhờ bạn, một ngày học mười ngày nghỉ ”. Từ năm 1854, đi dạy học lấy lương ăn để tiếp tục học và đi thi. Song trong các khoa thi Hương tiếp theo 1855, 1858 đều bị trượt.
Nghĩ tôi lại gớm cái mình tôi,
Tuổi đã ba mươi kém một thôi...
Bốn khoá Hương thi không đậu cả,
Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi.



Có lúc, ông đã nản đường khoa cử, định chuyển nghề dạy học để kiếm sống và nuôi gia đình, thì được người bạn là Vũ Văn Báo nhận chu cấp lương ăn và khuyên đến cùng học với cha mình là Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ, huyện Nam Xang (Lý Nhân ngày nay). Bà mẹ ông cũng ân cần, nghiêm khắc khuyên con chớ thoái chí. Do vậy, khoa thi 1864 ông mới đỗ Cử nhân đầu trường Hà Nội. Tiếp theo ông thi Hội các khoa 1865, 1868 đều bị trượt. Ông ở lại Huế, vào học Quốc Tử Giám, khoa năm 1869 lại trượt. Cho đến khoa năm 1871 mới liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình, khi ông đã 37 tuổi.
Dưới triều Nguyễn, cho đến lúc đó mới chỉ có hai người đỗ Tam nguyên (đỗ đầu cả 3 kỳ thi), thì Nguyễn Khuyến là một. Nhưng khác với Trần Bích San (quê ở Vị Xuyên, Nam Định), ông phải lận đận gần 30 năm trời đèn sách, với 9 khóa lều chõng, đó là một cố gắng phi thường.
Đầu tiên, ông được bổ làm Sử quan trong triều; năm 1873, ra làm Đốc học Thanh Hóa, rồi thăng nhanh lên Án sát tỉnh. Năm 1874, ông phải mang quân chặn quân khởi nghĩa (mà sử cũ gọi là lệ phỉ) phạm vào tỉnh Thanh ở vùng Tĩnh Gia, Nông Cống. Đúng lúc ấy bà mẹ ông mất. Ông phải nghỉ ba năm về quê cư tang mẹ. Hết tang, ông vào triều giữ chân Biện lý bộ Hộ. Năm 1877 lại ra làm quan ngoài, giữ chức Bố chính Quảng Ngãi. Rồi làm Toản tu ở Sử quán, từ 1879 đến 1883, vẫn sống trong cảch thanh bần, lại thêm đau yếu, ông đã có tâm trạng chán ngán cảnh quan trường.
Năm 1883, quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai. Rồi Tự Đức chết (19-7-1883), triều Nguyễn phải ký hiệp ước Harmand ngày 25 tháng 8 năm 1883. Nguyễn Khuyến đã được cử làm Phó sứ sang Mãn Thanh. Ông đã ra Bắc, nhưng chuyến đi sứ ấy bị bãi. Ông lấy cớ đau yếu, xin tạm về quê dưỡng bệnh, thì trung tuần tháng 12 năm 1883, triều Nguyễn cử ông làm tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, song ông không chịu đến nhận chức, mà chính thức cáo quan về nghỉ hưu khi mới 50 tuổi.
Một phần tư thế kỷ về ở Yên Đổ này có ý nghĩa quyết định để nhà thơ trở thành bất tử, khi ông tiếp tục sáng tác nhiều và hay hơn nhiều so với thời gian trước đó.
Ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5-2-1909 (tức 15 tháng Giêng năm Kỷ Dậu), thọ 75 tuổi. Tác phẩm để lại: Quế Sơn thi tập; Yên Đổ Tam nguyên quốc âm thi tập.


THƠ VĂN
Thu vịnh


Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Trở về vườn cũ


----
Vườn Bùi chốn cũ!
Bốn mươi năm, lụ khụ lại về đây.
Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây,
Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế!
Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế,
Ôn công rượu nhạt chuốc chiều xuân.
Ngọn gió xuân ngảnh lại lệ đầm khăn,
Tính thương hải tang điền qua mấy lớp.
Ngươi chớ giận Lỗ hầu chẳng gặp,
Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi?
Muốn về sao chẳng về đi!

Thu điếu


----
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Bài di chúc

Kém hai tuổi xuân đầy chín chục,
Số thầy sinh phải lúc dương cùng.
Đức thầy đã mỏng mòng mong,
Tuổi thầy lại thọ hơn ông cụ thầy.
Học chẳng có rằng hay chi cả,
Cưỡi đầu người kể đã ba phen.
Tuổi thầy tuổi của gia tiên,
Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày.
Ấy thuở trước ông mày cũng đỗ,
Hóa bây giờ cho bố làm nên.
Ơn vua chửa chút báo đền,
Cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời.
Sống không để tiếng đời ta thán,
Chết lại về quê quán hương thôn.
Mới hay trăm sự vuông tròn,
Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì.
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,
Kín chân tay đầu gót thì thôi.
Cỗ đừng to lắm con ơi,
Hễ ai chạy lại, khuyên mời người ăn.
Tế đừng có viết văn mà đọc,
Trướng đối đừng gấm vóc làm chi.
Minh tinh con cũng bỏ đi,
Mời quan đề chủ, con thì không nên.
Môn sinh chớ bỏ tiền đặt giấy,
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi.
Khách quen chớ viết thiếp mời,
Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu.
Chẳng qua nợ để cho người sống,
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu.
Lại mang cái tiếng to đầu,
Khi nay bày biện, khi sau chê bàn.
Cờ biển của vua ban ngày trước,
Lúc đưa thầy, con rước đầu tiên.
Lại thuê một lũ thợ kèn,
Vừa đi vừa thổi, mỗi bên dăm thằng.
Việc tống táng lăng nhăng qua quít,
Cúng cho thầy một ít rượu hoa.
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu".

Bạn đến chơi nhà


Bài Bạn Đến... của Nguyễn Khuyến làm ta nhớ bài Khách Chí của Đỗ Phủ:
"Quanh nhà nam bắc lụt to,
Hôm hôm chỉ thấy đàn cò lại chơi.
Lối hoa chẳng quét vì ai,
Cửa bồng nay mới đón ngài mở ra.
Xuềnh xoàng mâm chén, chợ xa,
Có vò rượu cũ của nhà nấu thôi.
Nếu cho tiếp rượu cùng vui,
Gọi ông hàng xóm sang ngồi chén luôn."
(Trần Trọng Kim dịch)
Hai bài đều hay, nhưng thơ Nguyễn hóm hỉnh, còn thơ Đỗ thì không.
----
Chẳng mấy khi nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn mò cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải đã tàn cây, cà chửa nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta!

Đống ông Cuội

Đầu đường ngang có một chỗ lội
Có miếu ông Cuội cao vòi vọi
Đàn bà đến đó vén quần lên
Chỗ thời đến háng, chỗ đến gối
Ông Cuội ngồi trông mỉm miệng cười
"Cái gì trông trắng như con cúi?"
Vội vàng khép nép đứng liền thưa
"Trót dại hở hang xin xá tội!"
Ông rằng: "Mày cũng chẳng tội gì,
Chỉ tội làm ông cứng con buội
Muốn tốt mày về bảo làng mày:
Ra đây ông cho giống ông Cuội."
Cho nên làng ấy sinh ra người
Sinh ra rặt những thằng nói dối.

Hội Tây


Kìa hội Thăng Bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải
Thằng bé lom khom nghé hát chèo
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.

Tự trào

Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đang dở cuộc, không còn nước,
Bạc chửa thâu canh, đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ!
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!

Anh giả điếc

Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ "sáng tai họ, điếc tai cày",
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Tọa trung đàm tiếu, nhân như mộc,
Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.
Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu;
Khi chè sen năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu.
Tỉnh một chốc, lâu lâu rồi lại điếc
Điếc như thế ai không muốn điếc!
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà
Hỏi anh, anh cứ ậm à!

Thu ẩm




Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.

Hoài cổ

Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
Sự đời đến thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên giậu hạ di rồi.
Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mây trắng về đâu nước chảy xuôi.

Một thoáng Xuân Hương!

Ôm tiu, gối mõ ngáy khò khò,
Gió lọt phòng thiền mát mẻ cô.
Then cửa từ bi gài lỏng cánh,
Nén hương tế độ đốt đầy lò.
Cá khe lắng kệ, đầu hi hóp,
Chim núi nghe kinh, cổ gật gù.
Nhắn bảo chúng sinh như muốn độ,
Sẽ quì, sẽ niệm, sẽ "nam mô!" (Bỡn Cô Tiểu Ngủ Ngày)
Trai sao chẳng biết tính con cò
Mày hở hang chi nó mổ cho
Đã cậy dày mu không khép kín
Cho nên dài mỏ chực ăn to
Thôi về bãi bể cho êm ái
Để mặc bên sông nó gật gù
Cò trắng dẫu khôn đành gác mỏ
Trai già chờ lúc lại phơi mu. (Cò Mổ Trai)
Con tạo ghen chi gái má hồng,
Mà đem nước đến vỗ tầm vông.
Gió lùa cửa cống bèo man mác,
Trăng xỏ buồng trai bóng phập phồng.
Những sợ anh kình rình dưới rốn,
Lại lo chú chuối lẩn bên hông.
Quản chi điểm phấn trang hồng nữa,
Chỉ biết nơi sâu với chốn nông. (Gái Góa Than Lụt)
Thu vén giang sơn một cắp tròn,
Nghìn thu sương tuyết vẫn không mòn.
Biết chăng chỉ có ông Hà bá,
Mỉm mép cười thầm với nước non. (Gái Rửa Bờ Sông)

Đĩ cầu Nôm

Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ
Trời sinh ra cũng để mà chơi
Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời
Chơi thủng trống, long dùi âu mới thích
Đĩ bao tử càng chơi càng lịch
Tha hồ cho khúc khích chị em cười
Người ba đấng của ba loài
Nếu những như ai thì đĩ mốc
Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc 
Khá khen thay làm đĩ có tông 
Khắp giang hồ chẳng chốn nào không
Suốt Nam, Bắc, Tây, Đông đều biết tiếng
Đĩ mười phương chơi cho đủ chín
Còn một phương để nhịn lấy chồng
Chém cha cái kiếp đào hồng 
Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số
Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó,
Mai sau ngày giỗ có văn nôm
Cha đời con đĩ cầu Nôm.

GIAI THOẠI
Tài vẽ bùa “trấn yểm” 
Cuốn sách Nguyễn Khuyến và giai thoại do Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh ấn hành năm 1987 do Bùi Văn Cường sưu tầm và biên soạn kể rằng: Một làng nọ bị hỏa hoạn cháy mất cả đình làng. Khi dựng lại đình, kỳ mục làng đến xin cụ Tam Nguyên mấy chữ về treo để trấn thần hỏa vì người ta tin rằng cụ là một vị thần sống và do vậy chữ cụ có thể cảm động được cả thần linh.
 
Tranh vẽ cụ Nguyễn Khuyến mặc áo quan treo trong từ đường tại quê nhà cụ.
Nghe những người đến xin chữ nói rõ sự tình, cụ liền lấy cây bút đại tự viết lên lụa điều một chữ “Nhất” rất lớn có hai đầu phình ra, giữa thót lại. Cụ dặn đem về treo ngược lên giữa cửa đình. Chẳng ai hiểu ý nghĩa ra sao nhưng người ta không dám hỏi mà cứ y lời đêm về treo lên.
Lâu lâu sau, không thấy xảy ra hỏa hoạn nữa, người ta tin là do sự mầu nhiệm của đạo bùa của cụ Tam Nguyên nên làng bèn biện lễ và cử quan viên đến tạ ơn cụ. Hôm ấy có người đánh bạo hỏi cụ ý nghĩa của chữ “Nhất” trên đạo bùa.
Nghe vậy cụ hỏi lại: “các ông thấy chữ “Nhất” ấy có giống cái chày không?”. Đám người kia bảo rất giống. Lúc ấy cụ mới cười rồi thủng thỉnh bảo: “Cái chày mà treo đứng là “chày đứng”. Chày đứng là đừng cháy. Có thế thôi!”.
Bán chữ cho quan tham
Từ khi cụ Tam Nguyên cáo lão về quê sinh sống, dân quanh vùng vì kính ngưỡng học vấn, chữ nghĩa của cụ nên thường đến xin cụ cho câu đối. Trong những đối tượng xin câu đối, xin hoành phi có người có lòng thành thực nhưng cũng không ít kẻ xin vì thói hãnh tiến. Cụ vốn căm ghét bọn quan lại sống dựa vào Tây nên nhiều phen cụ đã sử dụng vốn chữ nghĩa của mình để chửi đám này khi chúng đến xin câu đối.
 
Cổng vào nhà cụ Nguyễn Khuyến với câu đối và đại tự do chính cụ đặt ra lúc sinh thời.
Sách Nguyễn Khuyến và giai thoại có chép giai thoại về việc cụ dùng phép chiết tự để mắng tên tri huyện Thanh Liêm khi y đến xin cụ một bức hoành phi.
Vốn dĩ viên quan này vừa tham lại vừa kiệt nhưng lại thích làm sang. Để tỏ ra mình cũng là tay biết chơi chữ nghĩa, nhân một lần có việc quan đi qua làng, hắn rẽ vào nhà cụ Nguyễn Khuyến xin cụ viết cho mấy chữ để về treo nơi công đường.
Đã biết rõ bản chất hắn, cụ không úp mở nói ngay: “Được, chữ thì có nhưng đắt đấy! mỗi chữ mười quan. Thầy cần mấy chữ, cứ việc tính tiền ra mà lấy”. Viên tri huyện nghe thì giật mình nhưng chót ngỏ lời rồi không thể chạy làng mà hoành phi thì không thể xin một chữ. Cuối cùng y đành cay đắng xin hai chữ. Cụ hẹn mai cho người mang đủ tiền đến lấy.
Viên quan về nhà thuật lại chuyện cho vợ nghe, mụ vợ giãy nảy lên: “Thôi chết! Chỗ nào chứ chỗ cụ Tam Nguyên, ông làm thế chỉ tổ lòi tính keo kiệt ra, người ta khinh cho. Này nhé, hoành phi 2 chữ là ít nhất, người ta cũng thường xin thế. Nhưng đằng này khác: cụ đã ngã giá trước mà mình chỉ xin có hai chữ, có phải rõ ra mình bủn xỉn, tiếc tiền không?”.
 
 Trên nền đất của "Vườn Bùi chốn cũ" ngày nay một tòa nhà gỗ 5 gian được con cháu xây dựng làm từ đường thờ tự tổ tiên và tưởng niệm cụ Tam Nguyên.
Nghe vợ nói viên quan vỡ lẽ là mình dại nên lại bấm bụng sai người mang 40 quan xuống xin cụ cho hẳn 4 chữ. Dù rất xót của nhưng viên quan cũng được nở nang mày mặt vì cụ cho 4 chữ rất hay là “Thiên lý lương nhân” tạm dịch là “nghìn dặm người tốt”.
Nghĩ đến thân phận mình làm quan phụ mẫu, hoành phi như thế nghĩa là có tiếng tốt được người ta đồn xa đến nghìn dặm nên vợ chồng tri huyện rất mừng bèn chọn gỗ tốt thuê thợ khắc ngay.
Ít lâu sau có một anh học trò lỡ lời thế nào đấy bị quan sai lính nọc ra đánh giữa công đường. Anh học trò bị đánh xong hậm hực quay ra vừa đi vừa ngoái cổ lại nhìn bức đại tự lẩm bẩm: “Hèn gì mà cụ Tam Nguyên chẳng chửi cho! Đáng kiếp”.
Quan nghe thấy chột dạ mới gọi anh ta lại hỏi nghĩa là làm sao. Nhưng anh học trò chỉ nói: “Cụ Tam Nguyên chửi quan mà quan không biết”. Quan phải nài nỉ mấy lần, sau phải cho anh ta một ít tiền làm lộ phí anh ta mới giảng cho.
Thì ra “Thiên lý lương nhân” có thâm ý chửi quan là “Trọng thực” tức là tham ăn. Bởi vì chữ Thiên đặt trên chữ Lý thành chữ Trọng, chữ Nhân đặt trên chữ Lương là chữ Thực.
Câu đối vô tiền khoáng hậu
Lại có anh làm nghề coi chợ vừa mua được chức phó lý lại dựng được ngôi nhà mới vừa gần chợ lại vừa gần sông. Chuẩn bị đến ngày tân gia, anh này đến xin cụ Tam Nguyên đôi câu đối. Vốn biết dăm ba chữ Hán, anh ta xin cụ cho câu đối bằng chữ Hán.
Nhưng khi về nhà khoe vợ thì vợ lại trách sao không xin cho câu đối chữ nôm cho dễ hiểu. Rồi chẳng đợi chồng thỏa thuận, chị vợ chạy ngay đến nhà cụ Tam Nguyên thưa lại là xin câu đối nôm. Thấy chuyện ngộ nghĩnh, cụ làm bộ khó khăn nói: “Lôi thôi nhỉ! Anh thích chữ, chị thích nôm, khó chiều quá! Thôi thì thế này là vừa cả lòng anh, lòng ả”. Nói rồi cụ kêu lấy giấy bút ghi:
Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa tịch tằng xưng tị ốc
Giàu ở làng, sang ở nước, nhờ trời nay đã vểnh râu tôm
Cái hay của câu đối là ở đầu mỗi câu có một câu tục ngữ và dù là một vế chữ Hán một vế chữ Nôm nhưng lại đối nhau chan chát: Làng với Thị, Giang với Nước. Hay nhất là mấy chữ cuối của hai vế: Xưng tị ốc (nghĩa là xưa từng thịnh vượng) với vểnh râu tôm vừa nói được nỗi mừng lại vừa tả được sự hãnh diện của vợ chồng anh coi chợ.


Chia sẻ ngay với bạn bè bài viết này
Facebook Pinterest StumbleUpon Delicious Delicious

1 comments:

Anonymous
March 27, 2022 at 4:06 PM Reply

Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến >>>>> Download Now

>>>>> Download Full

Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến >>>>> Download LINK

>>>>> Download Now

Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến >>>>> Download Full

>>>>> Download LINK

Post a Comment